Gỡ vướng trong quản lý đất đai sau Nghị định 69/2009/NĐ-CP
(Chinhphu.vn) – Tổng cục Quản lý đất đai đã có hướng dẫn giải đáp thắc mắc của một số cán bộ làm công tác quản lý đất đai ở địa phương khi áp dụng Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Một trong những ưu điểm lớn được nhiều người thừa nhận là Nghị định 69/2009/NĐ-CP đã tạo nền tảng pháp lý rất tốt cho công tác quản lý và sử dụng đất đai, góp phần giải quyết về căn bản những vấn đề vướng mắc trong quản lý đất đai như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định cư.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng Nghị định, Cổng TTĐT Chính phủ tiếp tục nhận được thắc mắc của bạn đọc đề nghị được giải đáp, như: Việc thực hiện các "dự án giao thời" trước và sau khi triển khai Nghị định; việc thực hiện quy định mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; xác định số tiền được hỗ trợ khi được bồi thường nhỏ hơn giá trị 1 suất tái định cư tối thiểu; xác định giá đất ở trung bình khu vực thu hồi đất; xác định giá trị được hỗ trợ trong trường hợp hỗ trợ 1 lần bằng 1 suất đất ở hoặc 1 căn hộ chung cư hoặc 1 suất đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp.
|
Diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất |
Theo hướng dẫn của Tổng cục Quản lý đất đai, đối với những dự án đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trước ngày Nghị định 69/2009/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (1/10/2009) thì phải thực hiện đúng theo quy định tại khoản 3 và 4 Điều 39 của Nghị định.
Trường hợp dự án đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trước ngày 1/10/2009 nhưng chưa thực hiện chi trả bồi thường hỗ trợ theo phương án đã được phê duyệt thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào Điều 17 của Nghị định 69/2009/NĐ-CP và tình hình thực tế đối với từng dự án cụ thể để quyết định khoản hỗ trợ khác cho phù hợp.
Diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất
Đối tượng được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm là hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 1/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Diện tích đất nông nghiệp được tính hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp do UBND tỉnh quy định khi thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ và Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Đối với những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa thực hiện việc giao đất nông nghiệp theo 2 Nghị định trên thì diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương theo quy định tại Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Điều 70 của Luật Đất đai.
Về mức hỗ trợ, khi quy định hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (từ 1,5 đến 5 lần giá đất nông nghiệp) thì UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, giá đất nông nghiệp của từng vùng (đồng bằng, trung du, miền núi, vùng ven đô thị, loại đất nông nghiệp như đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất lúa nương…) để quy định cho phù hợp.
Trường hợp UBND cấp tỉnh đã ban hành bảng giá đất nông nghiệp mà trong đó đã tính cả phần hỗ trợ trong giá đất thì phải tách phần giá đất riêng và phần hỗ trợ riêng để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 22 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Giá đất ở trung bình tính theo nguyên tắc trung bình cộng các mức giá đất ở
Trường hợp số tiền bồi thường, hỗ trợ cho hộ cá nhân nhận đất ở, nhà tái định cư nhỏ hơn giá trị một suất tái định cư tối thiểu thì áp dụng quy định tại khoản 1, Điều 19 Nghị định 69/2009/NĐ-CP bao gồm: tiền bồi thường về đất ở và tiền hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu vực dân cư và đất vườn ao không được công nhận là đất ở (nếu có).
Về xác định giá đất ở trung bình khu vực thu hồi đất để hỗ trợ đất nông nghiệp trong khu dân cư, phạm vi phường, khu dân cư thị trấn được quy định tại khoản 2 và 3 Điều 21 của Nghị định 69/2009/NĐ-CP theo nguyên tắc trung bình cộng các mức giá đất ở trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành của khu vực thu hồi đất.
Trong trường hợp khu vực thu hồi đất không có đất ở thì giá đất ở trung bình được xác định theo nguyên tắc trung bình cộng các mức giá đất ở trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành của xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi.
Căn cứ vào điều kiện thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh xác định giá đất ở trung bình để làm cơ sở tính toán phương án bồi thường hỗ trợ cho từng dự án cụ thể trên cơ sở đề nghị của UBND cấp huyện hoặc Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (đối với dự án do UBND cấp tỉnh phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng).
Ban Bạn đọc